Bạc Liêu là một tỉnh khá hạn chế về tài nguyên du lịch sinh thái nhưng lại sở hữu một nguồn tài nguyên du lịch văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng vô cùng phong phú, điển hình là các di tích lịch sử, các cơ sở tôn giáo, các lễ hội đặc trưng của tỉnh nhà đều là nguồn tài nguyên vô giá tạo nên sức hút du lịch riêng cho Bạc Liêu, cũng vì vậy mà tiềm năng khai thác nguồn tài nguyên du lịch văn hóa, tâm linh là vô cùng lớn. Nhưng để khai thác các di sản văn hóa, lịch sử trên trong hoạt động phát triển du lịch một cách bền vững và bảo tồn, phát huy được các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng cho thế hệ mai sau thì không hề đơn giản.
Ở chiều ngược lại, hoạt động du lịch cũng là cầu nối hữu hiệu giúp quảng bá, phát huy giá trị di sản, mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng, từ đó giới thiệu hình ảnh văn hóa Bạc Liêu tới công chúng cả nước và bạn bè quốc tế. Có thể thấy giữa hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch có mối quan hệ tương hỗ mật thiết. Nếu biết quản lý, sử dụng đúng hướng, di sản sẽ là nguồn lực lớn mang đến lợi nhuận lâu dài, bền vững cho du lịch nói riêng và nền kinh tế – xã hội nói chung.
Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động du lịch dựa trên khai thác di sản văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng thời gian qua, dễ nhận thấy để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phần thua thiệt thường thuộc về di sản khi công tác bảo tồn các di sản này chưa được coi trọng đúng mức. Trên cả lãnh thổ Việt Nam đã có không ít vụ đánh đổi các di sản văn hoá, tôn giáo hay môi trường sinh thái bằng những khu du lịch nghỉ dưỡng: Vịnh Hạ Long không dưới một lần lọt vào tầm ngắm báo động của UNESCO bởi các hạng mục kinh tế, du lịch phát triển ồ ạt làm thay đổi cảnh quan, môi trường nơi đây, báo giới từng tốn không ít giấy mực khi phải “kêu cứu” cho “lá phổi xanh” của Đà Nẵng – bản đảo Sơn Trà, vì những dự án đầu tư du lịch gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cảnh quan, hệ sinh thái của nơi đây, tượng Bà Chúa Xứ thứ hai cũng được doanh nghiệp lén lút thi công trên núi Sam ( An Giang ). Dù các công trình này đã buộc phải tháo dỡ, nhưng những tổn thường mà chúng gây ra đối với cảnh quan, hệ sinh thái, các di sản khó có thể khắc phục. Còn trên thế giới cũng không thiếu những sự kiện tương tự, do phát triển du lịch nhanh chóng cổ đổ Ayutthaya, di sản văn hóa thế giới nổi tiếng của Thái Lan cũng từng làm chính phủ nước này đau đầu khi hoạt động du lịch có khả năng làm biến đổi các giá trị căn bản của di tích lịch sử này .
Tất cả những ví dụ trên là một bài học quý giá cho Bạc Liêu trong hoạt động phát triển du lịch tại khu Quán Âm Phật Đài nói riêng và tại các di sản văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng nói chung. Nếu mối quan hệ giữa phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng không nhìn nhận rõ ràng, một cách khách quan, đầy đủ, có định hướng thì sự phát triển du lịch theo kiểu đặt mục tiêu kinh tế lên hàng đầu sẽ chỉ mang đến những lợi ích ngắn hạn trước mắt và để lại hậu quả dài lâu.
Khi du lịch được xác định trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Bạc Liêu, thì yêu cầu phát triển du lịch bền vững gắn liền với bảo tồn giá trị di sản càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển du lịch bền vững; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên…”. Đối với Bạc Liêu cần có những biện pháp thực tế trong công tác công tác bảo vệ, phục hồi và phát huy các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng trong hoạt động du lịch và hoạt động khai thác du lịch. Cần có sự bắt tay chặt chẽ giữa những người làm du lịch và những người làm di sản. Những dự án phát triển du lịch gắn với khai thác di sản văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng muốn triển khai, nhất định phải có sự tính toán, tham vấn kỹ lưỡng từ những chuyên gia di sản thông qua các hoạt động chuyên môn nhằm đánh giá chi tiết những tác động đến di sản, từ đó bảo đảm khống chế các tác động ở mức độ cho phép. Trong quy hoạch tổ chức không gian du lịch, cần quản lý được sức chứa phù hợp khả năng chịu tải của tài nguyên, môi trường du lịch tại di sản.
Ngoài ra, vấn đề quan trọng là đào tạo đội ngũ cán bộ từ quản lý di sản đến những người làm du lịch am hiểu về văn hóa và kinh doanh du lịch, cần lưu ý quan điểm gắn di sản với phát triển du lịch không có nghĩa là tất cả các di sản đều được phép khai thác du lịch. Có những di sản chưa, hoặc không được khai thác du lịch mà phải bảo tồn. Trong phát triển du lịch tại các khu di sản, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ và quyền lợi của các bên tham gia, nhất là cộng đồng địa phương với tư cách là chủ nhân của di sản trong các hoạt động bảo vệ, quản lý và khai thác di sản, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để tạo thêm nguồn kinh phí cho trùng tu, bảo tồn di sản.
Sil Trần
Trong khuôn khổ Ngày hội chào đón tân sinh viên khóa 2024, cuộc thi sinh viên khởi nghiệp “The Business to Be”…
Chiều ngày 27 tháng 8 năm 2024 tại phòng 704 – Cơ sở Hồ Hảo Hớn đã diễn ra Hội thảo “Tổ…
Vào ngày 01/6 vừa qua, tại cơ sở Võ Văn Tần Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, CLB Ngôn…
GIẢI VIỆT DÃ HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH MỞ RỘNG NĂM HỌC 2023 –…